SGTT.VN - Năm
1953, cậu thanh niên Trần Thanh Vân 16 tuổi rời quê hương Quảng Bình đi Pháp du
học. Trong kỳ thi vấn đáp năm 1957, cậu đã gặp giáo sư Maurice Lévy, một trong
những cha đẻ của vật lý nguyên tử Pháp và Thanh Vân quyết định theo ngành vật
lý. Để giờ đây, giáo sư Trần Thanh Vân được xem là một bậc thầy trong lĩnh vực
lý thuyết vật lý nguyên tử.
Nói đến GS.TS Trần Thanh Vân là nói đến những ngôi làng SOS tại Việt Nam mà ông cùng vợ là GS.TS Lê Kim Ngọc và nhiều kiều bào ở Pháp kiên trì góp sức dựng xây…Ở tuổi thất thập, ông vẫn dồn hết tâm huyết cho những dự án mang tên “Việt Nam”. Ông nói: “Khoa học và quê hương là lẽ sống của tôi!”
Những
năm đầu 1970, chiến tranh Việt Nam rất ác liệt, từ làng quê đến thành phố trong
cả nước, trẻ mồ côi gia tăng từng ngày… Tại Pháp, để có thể làm được việc gì đó
có ích cho quê nhà mà không bị coi là “làm chính trị”, chúng tôi đã thành lập hội
Giúp đỡ trẻ em Việt Nam. Trong xa xôi, cách trở, nhờ sự đồng tình, ủng hộ của
nhiều kiều bào và sinh viên ta bên đó, dự định thành lập làng SOS cho trẻ em tại
Việt Nam đầu tiên tại Lâm Đồng đã có kết quả. Sau này, cũng với cách thức đó,
chúng tôi tiếp tục có thêm một số làng SOS khác tại Việt Nam…
Khi ý định
đã rõ ràng, kế hoạch đã thống nhất, việc cần thiết là phải tìm ra tiền. Mà lại
không muốn có tiền bằng cách xin xỏ. Phải khẳng định với người Pháp và thế giới
rằng, người Việt Nam có thể giúp người Việt Nam bằng chính sức lực, tiền bạc của
mình. Chúng tôi rất kiên quyết trong chuyện này, không quản ngại khó khăn. Sau
khi nhờ các anh em sinh viên trẻ giúp in thiệp Noel, mọi người, trong đó có vợ
chồng tôi, đến các nhà thờ, chờ người đi lễ ra để bán thiệp cho họ…
Có lần nhắc tới
tuổi thơ, giáo sư nói rằng do đã từng nghèo khó, nên “rất hiểu về sự nghèo khó
của người khác”...
Du học,
ông nổi tiếng vì thành tích học tập: đứng đầu môn toán trong kỳ thi tú tài tại
Pháp, đỗ cử nhân đại học Sorbonne năm 22 tuổi, đỗ tiến sĩ quốc gia – học vị tiến
sĩ cao nhất – năm 27 tuổi… Tự học có phải là nguyên tắc số một của ông thời trẻ?Tôi
mồ côi cha mẹ từ sớm, nhờ anh chị em ruột làm nghề bán tạp hoá, chắt chiu vất vả
nuôi ăn học. Dù vậy, tôi còn may mắn có anh chị em, trong khi nhiều đứa trẻ
khác sống vất vưởng, thiếu thốn đủ thứ vì không có người thân… Những ấn tượng
đó rất khó phai mờ.
Tôi thường
nghĩ, mình phải tự học, tự trau dồi kiến thức, luôn luôn sẵn sàng tất cả, để
khi có cơ hội thì không để nó tuột khỏi tay mình!
Điều gì đã khiến
ông thuyết phục được GS.TS Odon Vallet dành 1/10 quỹ học bổng của mình để giúp
các sinh viên giỏi Việt Nam?
Vấn đề
là mình hãy bắt đầu từ những việc nhỏ. Từ đó sẽ có sự tin cậy.
Dành cả cuộc đời làm khoa học, sao giáo sư không chọn cách an hưởng tuổi già mà lại chọn con đường vất vả là làm cầu nối cho các nhà khoa học trên thế giới, đặc biệt là các nhà khoa học Việt Nam?
Do tích luỹ được chút kinh nghiệm sau 45 năm tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế, có sẵn mạng lưới các nhà khoa học quốc tế, nên tôi nghĩ mình chưa thể dừng lại nghỉ ngơi lúc này… Thâm tâm tôi luôn muốn được đóng góp lâu dài, hiệu quả nhất cho quê hương.
Tên ông đã trở thành một bảo chứng cho thành công của nhiều hội nghị khoa học quốc tế, điều gì giúp ông có được sự tín nhiệm đó?
Ban đầu, khi tổ chức hội nghị ở châu Âu, tôi muốn giữa các đại biểu tham dự sẽ tạo được sự liên lạc mật thiết, do đó, rất chú ý đến sự có mặt của các nghiên cứu sinh trẻ. Làm sao để thế hệ tương lai có điều kiện gặp gỡ, trò chuyện với các nhà khoa học đi trước một cách thoải mái và hiệu quả nhất khi mà ở các hội nghị lớn, các vị giáo sư tên tuổi thường bị vây kín bởi những người hâm mộ, anh em trẻ rất khó tiếp cận. Nếu bố trí họ ở chung khách sạn và dùng cơm chung, thậm chí đi trượt tuyết cùng nhau… sẽ tăng được tối đa thời gian tiếp xúc giữa các thế hệ. Cách đó tuy bị một số chỉ trích là “như quân ngũ” nhưng người ủng hộ lại cho đó là “sự chuẩn bị điều kiện hợp tác trong tương lai” rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học… Về sau, nhiều hội nghị khác của châu Âu, Mỹ cũng làm theo cách này.
Tới đây, tôi muốn Việt Nam tổ chức được những hội nghị tầm cỡ như vậy với điều kiện có một trung tâm Khoa học và giáo dục quốc tế mà chúng tôi dự kiến khởi công tháng 12 tới tại Quy Nhơn. Trong tương lai, đó là một điểm sáng trong khu vực, với các đối tác lớn là các trung tâm nghiên cứu vật lý hàng đầu thế giới, từ đó sớm có đóng góp cho nền khoa học nước nhà, nâng cao vị thế và hình ảnh đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế…
Với việc triển khai một dự án lớn, hẳn giáo sư có điều kiện để “biết” nhiều hơn về phong cách làm việc trong nước?
Tôi rất cảm động vì sự nhiệt tình của anh em ở Quy Nhơn. Trước tôi có nghe nói ở Việt Nam đưa ra một dự án phải mất khoảng mười năm để được phê duyệt vì mắc mớ nhiều thủ tục, giấy tờ; nhưng dự án của tôi mới trình... ba năm đã được duyệt (ở Pháp ba năm là dài nhưng ở Việt Nam thế là rất nhanh!) Hiện đã có thiết kế sơ bộ do KTS Milou giúp (tác giả công trình viện Bảo tàng quốc gia Singapore nổi tiếng). Mong sao hai năm nữa nơi đây có thể tổ chức được các hội nghị khoa học quốc tế quan trọng…
Giáo sư sẽ làm gì để có tiền xây trung tâm Khoa học và giáo dục quốc tế với quy mô lớn như thế?
Rất mừng
là thời gian đi qua, dần dần tôi cũng đã thuyết phục được nhiều nhà khoa học
trên thế giới, các viện nghiên cứu… ủng hộ việc triển khai dự án. Lúc đầu, quả
thật chỉ định xây đơn giản, nhưng sau khi gặp KTS Milou trở về, chúng tôi thấy
rằng “có cơ hội thì phải nắm lấy”, nên đã quyết định đầu tư toàn bộ số tiền 2
triệu USD mồ hôi nước mắt tích luỹ được từ việc tổ chức các hội nghị khoa học
quốc tế hơn 40 năm qua vào thực hiện dự án. Nhưng 2 triệu đô đó chỉ vừa đủ để
hoàn thiện giai đoạn một bao gồm nhà hội nghị và khu vực xung quanh, vẫn rất cần
sự tham gia của các nhà đầu tư khác trong và ngoài nước…
Nghiên cứu
khoa học hay làm nhà tổ chức, nhà giáo dục, với giáo sư trước sau vẫn chỉ là một
con đường?
Nếu những
70 thế kỷ trước, tôi muốn thế giới biết đến Việt Nam qua những làng SOS do
chính người Việt Nam chung tay dựng lên; những năm 90 tôi muốn các nhà khoa học
trên thế giới tham gia các hội nghị khoa học mang tên Gặp gỡ Việt Nam để biết về
Việt Nam nhiều hơn, thì với việc xây dựng trung tâm khoa học Quy Nhơn, đó là cơ
hội quý báu để quảng bá một hình ảnh thực sự tốt đẹp về Việt Nam hôm nay.
Trên mọi nẻo
đường cuộc sống, khoa học, hoạt động xã hội, bên cạnh ông luôn có sự tham gia của
GS.TS Lê Kim Ngọc. Ông bà đã cùng “nhìn về một hướng” như thế nào?
Chúng
tôi đều là những thanh niên Việt Nam nghèo, sang Pháp với hai bàn tay trắng,
không cha mẹ họ hàng. Khi kết hôn, chúng tôi đã định hướng con đường tương lai
cho cả hai, là nghiên cứu khoa học. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng tôi sống
như mọi người, không có gì khác, hầu như không bao giờ băn khoăn, đặt vấn đề tốt,
xấu. Đó là một cuộc sống đơn sơ, không có gì phức tạp, ngoài khoa học thì chăm
lo nuôi dạy con cái. Hai con gái của chúng tôi đều học hành tử tế, có sự nghiệp
riêng (nhưng không làm khoa học vì thấy cha mẹ vất vả và ít thì giờ cho bản
thân và gia đình quá). Đó là gia tài, là nguồn vui lớn nhất của vợ chồng tôi.
Quan trọng
là mỗi người đều có lĩnh vực riêng của mình. Tôi đi sâu về lý thuyết vật lý
nguyên tử, còn Ngọc thiên về khoa học thực nghiệm trong sinh học. Năm 1970, Ngọc
có một khám phá mới về lát mỏng tế bào, được giới khoa học đánh giá cao và rất
có giá trị ứng dụng. Chúng tôi đều thấy làm khoa học thì phải hết sức nghiêm
túc. Nghiêm túc để tránh được mọi sai sót, lỗ hổng. Nghiêm túc để có kết quả
đúng. Và còn một điều nữa mà hai chúng tôi đều tự rút ra: hãy làm nhiều, nói
ít.
Khi quyết định
dành thời gian nghỉ hưu cho các dự án ở Việt Nam, giáo sư đã có được sự đồng
thuận trong ngôi nhà của mình ra sao?
Mười
năm nay, chúng tôi về hưu, 100% thời gian và sức lực mà chúng tôi có, đều dành
cho các công việc liên quan đến Việt Nam. Chuyện gì làm được thì cả hai đều gắng
làm. Như khi thấy trẻ em bất hạnh, nhớ mình hồi nhỏ (Ngọc cũng mồ côi mẹ từ năm
hai tuổi, lớn lên là nhờ các anh chị nuôi), tôi và Ngọc đều tự nguyện đi bán
thiệp, ở Pháp và ở Mỹ…
Có lúc nào,
giáo sư chạnh lòng vì thời trẻ đã lãng mạn dành hết thời gian cho nghiên cứu mà
quên mất mục tiêu… kiếm tiền?
Không.
Trên thực tế, tôi cũng đã có nhiều cơ hội để kiếm tiền, để làm giàu, nhưng đã
không chọn. Ví dụ, có thời điểm Chính phủ cho vay tiền, có thể mua những biệt
thự cổ thế kỷ 15 - 16, sửa sang lại bán hoặc cho thuê rất được giá, và có người
làm cách đó mà tậu được 10 - 15 ngôi nhà… Vợ chồng tôi đều biết nhưng không
làm, vì thấy việc khác hợp với mình hơn. Tiền bạc chỉ cần vừa phải, đủ để sống
và để làm những việc mình muốn, chết đâu có mang theo được.
Ngôi nhà hiện
vợ chồng giáo sư đang ở – tài sản đáng giá nhất của hai nhà khoa học, nơi 40
năm trước đặt máy in thiệp Noel, bây giờ vẫn là nơi hướng về nguồn cội?
Đó là một
ngôi nhà bình thường, có tầng trệt một nửa là hầm thấp dưới đất. Khi hội Giúp đỡ
trẻ em Việt Nam thành lập, đây chính là địa chỉ hội họp, in thiệp đem đi các
nơi bán… Ngôi nhà đó rất đặc biệt, vì không có nó, khó thực hiện được các việc
từ thiện suốt bao năm qua. Đặc biệt hơn nữa, vì nó gắn với một sự kiện lịch sử
của dân tộc Việt Nam: hội nghị Paris năm 1972. Thời kỳ đó, vợ chồng tôi vừa qua
Mỹ làm việc về, lập hội Giúp đỡ trẻ em Việt Nam bên đó để xúc tiến xây làng SOS
đầu tiên. Một sáng ngủ dậy, thấy trước cửa rất nhiều cảnh sát Pháp. Thì ra nhà
hàng xóm là của đảng Cộng sản Pháp cho mượn để tổ chức cuộc gặp gỡ giữa ông Lê
Đức Thọ và ông Kissinger. Quả là một sự tình cờ đầy duyên nợ đối với hai người
Việt Nam đang xa quê như chúng tôi!
Một sự tình cờ
khác, là cuộc gặp với “giáo sư cộng sản” Nguyễn Văn Hiệu, tiếp đó là một tình bạn
đặc biệt, một giai đoạn mới trong cuộc đời ông?
Năm 1963, khi tôi vừa làm xong luận án tiến sĩ ở Paris, anh Hiệu cũng vừa xong tiến sĩ ở Moskva. Tại một hội nghị ở Ý, chúng tôi gặp nhau. Ngoài sự quý trọng về mặt khoa học, là một tình bạn thân thiết đến bây giờ… Thời kỳ đầu sau đổi mới, tôi có về Việt Nam, anh Hiệu nhờ tôi giúp tổ chức một hội nghị quốc tế vì biết tôi quan hệ rộng rãi với nhiều nhà khoa học trên thế giới, tôi đã từ chối bởi lúc đó, việc đi lại rất phức tạp. Từ Sài Gòn lên Đà Lạt, hay đi bất cứ một địa phương nào khác, đều phải có giấy phép. Khi tình hình được cải thiện, tôi nói với anh Hiệu có thể tổ chức được, và tháng 12.1993, Gặp gỡ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức. Lúc đó Mỹ còn cấm vận Việt Nam, một giáo sư Mỹ đoạt giải Nobel đến dự hội nghị, rất cảm kích vì sự đón tiếp trân trọng, cởi mở của phía chủ nhà, đã nói “sẽ viết thư đề nghị Tổng thống Bill Clinton bỏ cấm vận!”
Có trong tay 300 công trình khảo luận và là tác giả của 115 đầu sách đã xuất bản, là giáo sư đại học Paris, được Nhà nước Pháp tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh, được viện Hàn lâm khoa học Nga bầu là viện sĩ… còn ước mơ nào giáo sư chưa thực hiện được?
Nguồn: Chuyện mục Giá trị sống của Báo Sài Gòn Tiếp Thị.
Từ khóa: GS. TS. Trần Thanh Vân, Khoa học, Quê hương, Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (ICISE).
0 VÀO ĐÂY ĐỂ BÌNH LUẬN:
Post a Comment