Hôm nay mình đăng lại bài của PGS. TS. Nguyễn Đức Lộc viết về đời sống công nhân, đây là bài được trích từ bài viết Nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh đương đại, in trong sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 1) Tình cảnh sống của người công nhân: thân phận, rủi ro và chiến lược sống, NXB Tri thức, 2015.
![]() |
Một bài thơ người công nhân đã viết
|
Bài này được báo Thế giới Tiếp thị đăng vào ngày 08/7/2015
với tựa là “Người thiểu số” ở đô thị, trong dịp giới thiệu Tập 1 của tuyển tập
sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại và thảo luận về khái niệm “thiểu số” là
nội dung chính Tập 2 của tuyển tập với chủ đề: “Những người thiểu số ở đô thị”
được tổ chức ngày 11/7/2015 tại tòa soạn báo Thế giới Tiếp thị. Trong bài viết
này cũng có đề cập đến những nội dung, ý kiến của mình viết trong bài “Ở lại hay trở về: chiến lược đời
sống của công nhân” được xuất bản trong cuốn Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 1).
Mạnh Tiến
*
* *
Mức sống, cơ hội
việc làm chênh lệch giữa các khu vực nông thôn và thành thị đã biến các đô thị
thành điểm hút đối với dân nhập cư. Khoảng cách giữa nông thôn và thành thị thường
được coi là ảnh hưởng tiêu cực của cải cách kinh tế và là một trong những yếu tố
thúc đẩy dòng di dân từ nông thôn ra thành thị (Lương Văn Hy, 2003: 81-106).
Một viễn cảnh
không như mơ ước
Trong hành
trình di cư tìm kế sinh nhai, mỗi công nhân đều nuôi dưỡng những mơ ước về một
cuộc sống an vui, dù nội hàm an vui của mỗi người mỗi khác. Khi từ biệt quê
hương lên đường mưu sinh, họ mang theo một giấc mơ đổi đời. Thế rồi giấc mơ đó
mau chóng gặp phải những rủi ro không thể lường trước. Chúng ta cần phải thừa
nhận rằng, nhiều công nhân đã đóng góp rất nhiều cho gia đình, quê hương mình.
Những khoản tiền họ gửi về quê trở thành nguồn hỗ trợ an sinh cho gia đình mình
và có thể là động lực xuất cư cho những người khác tại cộng đồng địa
phương.
Để đổi lấy điều
đó, họ phải tằn tiện, sống ở mức rất thấp của thành thị. Ở khía cạnh nào đó, họ
trở thành những người nghèo đa diện: nghèo đất ở quê, nghèo trình độ để đi làm,
nghèo vốn sống, thiếu khả năng ứng phó với những tình huống bất trắc, rủi ro
trong cuộc mưu sinh.
Bất chấp những
rủi ro đã được kể ra với muôn vàn khó khăn đối với công nhân, dòng người từ
nông thôn ra thành thị vẫn đông đúc. Họ vẫn sống cuộc sống của mình chứ không
phải của ai khác, dù cho có đôi lần họ muốn thay đổi để có cuộc sống sung túc
hơn. Họ vẫn sống với niềm hy vọng rồi đây cuộc sống ngày mai sẽ khác, sẽ đổi đời.
Họ chấp nhận cuộc sống khổ cực với những bữa cơm mà nguồn thực phẩm bẩn, độc hại
không người kiểm dịch được mua tạm trong khu chợ, xóm trọ. Ấy vậy, các cửa hàng
mua bán vàng, cầm đồ ở các khu xóm trọ công nhân lại có vẻ nhiều hơn những khu
dân cư khác. Để rồi như một trò chơi nghịch lý, đầu tháng mua vào, giữa tháng
bán ra để bù đắp các khoản thiếu hụt trong chi tiêu. Bởi dù khó khăn, nhưng lường
trước những khả năng bệnh tật, họ vẫn phải tằn tiện mua từng phân vàng để làm vốn
phòng thân. Trong cuộc mưu sinh ấy, có người may mắn thoát đời công nhân, nhưng
còn nhiều người vẫn đi về với nơi chốn cuộc đời là căn phòng trọ chật hẹp.
Đối với công
nhân, mỗi người ra đi kiếm sống với những lý lẽ riêng. Có người ra đi với mong
muốn kiếm chút vốn rồi về quê. Có người mong muốn một cuộc ra đi kiếm sống để rồi
đổi đời, lập nghiệp nơi đô thị, thoát khỏi cảnh nghèo túng chốn đồng quê. Có những
nữ công nhân chỉ vì đơn giản muốn tìm một nơi chốn có thể cứu rỗi cuộc đời
trong cuộc trốn chạy hôn nhân bi đát của mình, vốn bị bạo hành hơn là sự yêu
thương, sẻ chia từ người bạn đời nơi quê nhà. Có những người mẹ mang theo niềm
hy vọng trong cuộc mưu sinh là đứa con trai cần chút tiền đóng luyện thi vào đại
học. Có những cử nhân tạm giấu tấm bằng đại học sau một thời gian dài học hành
để sắm tạm đời công nhân, vốn cần sức trẻ hơn là bằng cấp.
Có thể thấy,
trong cõi sống của công nhân, không hẳn họ chỉ đơn độc một mình mà họ còn có cuộc
sống gia đình, dòng họ với sự sẻ chia, nhưng đồng thời cũng là gánh nặng trách
nhiệm trên vai với tư cách là người lao động chính trong gia đình.
Ở lại hay trở
về?
Trong khi đó,
Nguyễn Mạnh Tiến lại trăn trở với câu hỏi “Ở lại hay trở về?” trong chiến lược
sống của công nhân. Tác giả cho rằng có nhiều trường hợp công nhân đang đứng
trong tình thế lưỡng nan muốn ở lại cũng không được mà về cũng không xong. Các
dữ liệu định lượng qua các đợt điều tra đều nhằm vào những chiến lược ngắn hạn
của công nhân trong ba năm tới. Các kết quả từ phỏng vấn sâu lại chú trọng đến
chiến lược lâu dài và mong muốn của công nhân lại cho thấy rằng, đời sống công
nhân không thể nào giữ chân công nhân lâu dài được, những công nhân đều mong muốn
trở về quê nhà. Cây cỏ, cây rau, cỗ máy là những hình ảnh được những công nhân
dùng để ví von cho chính mình. Dĩ nhiên là họ không thể nào chấp nhận mãi mình
với hình ảnh đó, cho nên trong suy nghĩ của mình, họ vẫn đang cố gắng thay đổi
hình ảnh đó, với một thái độ chấp nhận, nhẫn nại với nghề công nhân để tích luỹ
những điều kiện và tìm kiếm những cơ hội để vươn lên.
Theo Nguyễn Mạnh
Tiến, hình ảnh công nhân chưa thể là điểm dừng trong quá trình di cư của những
công nhân nhập cư. Trở về quê hương sớm có xu hướng ngày càng tăng đối với công
nhân trong điều kiện làm việc và điều kiện sống hiện tại, khi những khó khăn, rủi
ro vượt quá khả năng chịu đựng của họ. Quê hương, gia đình vẫn là chỗ dựa vững
chắc của họ. Đời sống công nhân có chăng là cõi sống tạm của họ mà thôi.
Nguyễn
Đức Lộc
Mời đọc thêm
bài giới thiệu nội dung cuốn sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 1)
Tình cảnh sống của người công nhân: thân phận, rủi ro và chiến lược sống, đăng trên trang sociallife.vn, tại
đây:
Và bài giới
thiệu buổi ra mắt sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 1) đăng trên
trang Văn hiến miền Trung Tây Nguyên, tại đây:
0 VÀO ĐÂY ĐỂ BÌNH LUẬN:
Post a Comment